DÂN CHỦ LÀ GÌ?
ỦY BAN NHÂN QUYỀN VIỆT NAM TRÂN TRỌNG
GIỚI THIỆU
TÓM LƯỢC DÂN CHỦ
Năm
1215, các nhà quý tộc Anh gây áp lực buộc Vua nước Anh John phải ký một văn
kiện gọi là Magna Carta (Hiến chương), một bước quan trọng trên còn đường tiến
tới nền dân chủ hợp hiến. Làm như vậy nghĩa là nhà vua đã thừa nhận ông phải
tuân thủ luật pháp giống những người khác (© Bettmann/CORBIS)
NỘI DUNG
1/ Dân chủ là gì?
2/ Những đặc điểm của dân chủ
3/ Các quyền và nghĩa vụ
4/ Bầu cử dân chủ
5/ Pháp Quyền
6/ Chủ nghĩa hợp hiến
7/ Ba trụ cột của chính phủ
8/ Giới truyền thông độc lập và tự
do
9/ Các đảng phái chính trị, nhóm
lợi ích, các tổ chức phi chính phủ
10/ Quan hệ quân sự và dân sự
11/ Nền văn hóa dân chủ
Nội dung tiếng Anh của ấn
phẩm này có trên Internet tại địa chỉ:
Dân chủ là một thuật ngữ mà ai cũng biết nhưng vẫn
bị hiểu và dùng sai ở thời điểm mà các nhà độc tài, các chế độ độc đảng và lãnh
đạo các cuộc đảo chính quân sự đòi dân chúng ủng hộ vì tự cho rằng mình bảo vệ
dân chủ. Tuy nhiên, sức mạnh của ý tưởng dân chủ vẫn phát triển trong suốt
chiều dài lịch sử với nhiều biến cố. Các chính phủ dân chủ dù phải đối mặt với
nhiều thách thức, vẫn tiếp tục tiến bộ và lan rộng trên toàn thế giới.
Dân chủ – theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhân dân”
– về cơ bản được định nghĩa là một hình thức chính phủ trong đó quyền lực tối
cao thuộc về nhân dân. Dân chủ có thể do người dân trực tiếp thực thi. Ở các xã
hội lớn hơn, dân chủ được thực thi bởi các quan chức do nhân dân bầu ra. Hay
theo như câu nói nổi tiếng của Tổng thống Abraham Lincoln, dân chủ là chính phủ
“của nhân dân, do dân và vì dân”.
Tự do và dân chủ thường được dùng thay thế cho
nhau. Thực ra hai khái niệm này không đồng nghĩa. Dân chủ không chỉ là một loạt
ý tưởng và các nguyên tắc về tự do, mà còn bao hàm cả những thực tiễn và các
tiến trình đã được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử vốn phức tạp. Dân
chủ là sự thể chế hóa tự do.
Cuối cùng, người dân sống trong một xã hội dân chủ
phải phục vụ với tư cách là người bảo vệ chính quyền tự do của họ và hướng tới
những lý tưởng được đưa ra trong lời nói đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu
của Liên Hợp Quốc, đó là “thừa nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng
bất khả xâm phạm của mọi thành viên trong đại gia đình nhân loại là nền tảng
của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA DÂN CHỦ
Dân chủ không chỉ đơn thuần là một loạt thể chế
quản lý cụ thể. Dân chủ dựa trên nhóm giá trị, quan điểm và thực tiễn đã được
nhận thức rõ. Tất cả các giá trị, quan điểm và thực tiễn đó được thể hiện dưới
những hình thức khác nhau tùy theo nền văn hóa và các xã hội trên thế giới. Các
nền dân chủ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản chứ không phải những thực
tiễn thống nhất.
Những đặc điểm dân chủ cơ bản
·
• Dân chủ là hình thức chính phủ trong đó quyền lực và trách nhiệm công dân
do công dân trưởng thành trực tiếp thực hiện hoặc thông qua các đại diện của họ
được bầu lên một cách tự do.
·
• Dân chủ dựa trên các nguyên tắc đa số cai trị và các quyền cá nhân. Các
nền dân chủ chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trung hóa
chính quyền ở cấp khu vực và địa phương, với nhận thức rằng tất cả các cấp độ
chính quyền đều phải được tiếp cận và phải đáp ứng người dân khi có thể.
·
• Các nền dân chủ nhận thức rằng một trong những chức năng chính của họ là
bảo vệ các quyền con người cơ bản như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo; quyền
được pháp luật bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ chức và tham gia đầy đủ vào
đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của xã hội.
·
• Các nền dân chủ thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng
cho công dân ở độ tuổi bầu cử tham gia.
·
• Công dân ở một nền dân chủ không chỉ có các quyền, mà còn có trách nhiệm
tham gia hệ
thống chính trị. Đổi lại, hệ thống chính trị đó bảo
vệ các quyền lợi và sự tự do của họ.
• Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thỏa
hiệp. Theo lời của Mahatma Gandhi: “Không khoan dung là biểu hiện của tình
trạng bạo lực và cản trở phát triển tinh thần dân chủ thực sự”.
Hai hình thức dân chủ
Có hai loại hình dân chủ cơ bản, đó là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Trong nền dân chủ trực tiếp, công dân có thể tham gia
quyết định công việc chung mà không có sự can thiệp của các quan chức
được bầu lên hoặc được bổ nhiệm. Hình thức dân chủ
trực tiếp thực tế nhất nếu áp dụng cho một nhóm ít người như một tổ chức cộng
đồng, hội đồng bộ lạc, hoặc đơn vị địa phương của một liên đoàn lao động. Thành
viên các nhóm này có thể gặp gỡ nhau để bàn bạc các vấn đề và đi đến quyết định
bằng sự đồng thuận hoặc biểu quyết đa số. Bên cạnh đó, một số bang ở Mỹ cho
phép đưa ra trên phiếu bầu “đề xuất” và “trưng cầu dân ý” – yêu cầu thay đổi
luật – hoặc yêu cầu bầu lại các quan chức đã được bầu
trong các cuộc bầu cử bang. Những hoạt động này là
biểu hiện của hình thức dân chủ trực tiếp, tức là bày tỏ ý chí của đại bộ phận
dân chúng. Có nhiều thực tiễn khác mang yếu tố của nền dân chủ trực tiếp. Ở
Thụy Sĩ, nhiều quyết định chính trị quan trọng về các vấn đề, trong đó có y tế,
năng lượng và việc làm, là những vấn đề lấy biểu quyết của dân chúng cả nước.
Một số người có thể cho rằng Internet đang tạo ra những hình tức dân chủ trực
tiếp mới, vì nó cho phép các nhóm chính trị gây quỹ cho sự nghiệp của họ bằng
cách trực tiếp lôi cuốn những người cùng chung chí hướng.
Tuy nhiên, ngày nay cũng như trong quá khứ, hình
thức phổ biến nhất của dân chủ – dù là của một hành phố với 50.000 dân hay một
quốc gia 50 triệu dân – là hình thức dân chủ đại diện. Công dân bầu lên các
quan chức để đưa ra các quyết định chính trị, xây dựng luật và điều hành các
chương trình vì lợi ích chung.
Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số
Tất cả các nền dân chủ đều là những hệ thống trong
đó công dân tự do đưa ra các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số. Theo
lời của nhà văn Mỹ E.B. White: “Dân chủ là một niềm tin rằng đa số mọi người
đều đúng trong hầu hết các trường hợp”. Bản thân nguyên tắc đa số không tự động
mang tính dân chủ. Ví dụ, không thể nói một hệ thống là công bằng nếu nó cho
phép 51% dân số đàn áp 49% dân số còn lại nhân danh đa số. Trong một xã hội dân
chủ, nguyên tắc đa số phải gắn với việc đảm bảo các quyền của cá nhân con
người. Đổi lại, các quyền của người thiểu số và những người bất đồng sẽ được
bảo vệ – dù đó là những người thiểu số, tôn giáo hay đơn giản là những người
thua trong các cuộc tranh luận chính trị. Quyền của các nhóm thiểu số không phụ
thuộc vào thiện chí của đa số và cũng không bị tước bỏ bởi nguyên tắc đa số.
Quyền của các nhóm thiểu số được bảo vệ bởi vì luật pháp và các thể chế dân chủ
bảo vệ quyền của mọi công dân. Các nhóm thiểu số phải tin tưởng chính phủ bảo
vệ các quyền và sự an toàn của họ. Một khi điều này được thực hiện, các nhóm đó
có thể tham gia và đóng góp vào việc xây dựng các thể chế dân chủ của đất nước.
Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số là đặc trưng của tất cả các nền dân chủ.
Những khác biệt về lịch sử, văn hóa, dân số và kinh tế không ảnh hưởng đến
những đặc trưng này.
Đa nguyên và xã hội dân chủ
Trong một nền dân chủ, chính phủ chỉ là một đầu mối
trong mạng lưới xã hội gồm rất nhiều thể chế công và tư, các cơ quan luật pháp,
các đảng phái chính trị, các tổ chức và các hiệp hội. Sự đa dạng này gọi là đa
nguyên. Điều này có nghĩa là các nhóm và các thể thế trong một xã hội dân chủ
không phải phụ thuộc vào chính phủ mới được tồn tại, mới mang tính hợp pháp
hoặc mới có quyền lực. Hầu hết các xã hội dân chủ đều có hàng ngàn
các tổ chức tư nhân ở cấp địa phương và cấp bang. Nhiều tổ chức trong số
này có vai trò trung gian giữa các cá nhân và các thể chế xã hội và chính phủ phức
tạp của xã hội, thực hiện những vai trò không phải của chính phủ và mang đến
cho cá nhân cơ hội để trở thành một phần trong xã hội mà không cần phải tham
gia vào chính phủ.
Trong một xã hội độc tài, hầu hết những tổ chức như
vậy sẽ bị kiểm soát, kiểm duyệt, theo dõi và nếu không thì phải chịu trách
nhiệm trước chính phủ. Ở một nền dân chủ, theo luật pháp quy định, quyền lực
của chính phủ được xác định rõ và rất hạn chế. Do vậy, các tổ chức tư nhân về
cơ bản không chịu sự kiểm soát của chính phủ. Trong khu vực tư nhân bận rộn này
của xã hội dân chủ, công dân có thể tìm kiếm khả năng tự hoàn thành ước nguyện
của mình và thực hiện trách nhiệm đối với một cộng đồng mà
không chịu sự kiểm soát có thể rất mạnh từ phía nhà
nước hoặc phải tuân theo ý chí của những người có ảnh hưởng, quyền lực hoặc
tuân theo đa số.
CÁC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
Các nền dân chủ dựa trên nguyên tắc: chính phủ tồn
tại để phục vụ nhân dân. Nói cách khác, người dân là những công dân của nhà
nước dân chủ, chứ không phải là những người bị giám sát. Do nhà nước bảo vệ các
quyền của công dân, nên đổi lại công dân trung thành với nhà nước. Ngược lại,
trong hệ thống chuyên quyền, nhà nước yêu cầu dân chúng phải trung thành và
phục vụ nhà nước mà không có nghĩa vụ có đi có lại nào để đảm bảo người dân
thuận theo những hành động của nhà nước.
Các quyền cơ bản
Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là nhân tố cơ
bản của nền dân chủ. Theo Tuyên ngôn Độc lập Mỹ của Thomas Jefferson năm 1776:
Sự thật hiển nhiên là mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo
những quyền này, các chính phủ phải do dân bầu ra, quyền lực là quyền lực của
nhân dân.
Quan trọng hơn, ở các nền dân chủ, các quyền cơ bản
hay bất khả xâm phạm này bao gồm quyền tự do ngôn luận và bày tỏ, quyền tự do
tôn giáo, tín ngưỡng, tự do hội họp và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp
luật. Đây không phải là một danh sách toàn diện các quyền mà công dân được
hưởng ở một nền dân chủ, mà là một tập hợp các quyền chủ yếu và không thể thiếu
mà mỗi chính phủ dân chủ phải tôn trọng nếu muốn xứng đáng được gọi là chính
phủ dân chủ. Do các quyền này tồn tại độc lập với chính phủ, nên theo quan điểm
của Jefferson, chúng phải được xây dựng thành
luật và không bị chi phối bởi ý muốn nhất thời của đa số cử tri.
Tự do ngôn luận, hội họp và biểu
tình
Tự do ngôn luận và bày tỏ, đặc biệt về các vấn đề
chính trị và xã hội, là nguồn sinh khí của bất cứ nền dân chủ nào. Các chính
phủ dân chủ không kiểm soát nội dung các phát biểu nói hoặc viết. Do vậy, ở các
nền dân chủ luôn tồn tại những quan điểm khác nhau, những ý kiến và ý tưởng
trái ngược nhau. Các nền dân chủ có xu hướng phức tạp.
Dân chủ phụ thuộc vào việc công dân cần có tri
thức, hiểu biết và việc tiếp cận thông tin cho phép họ tham gia đầy đủ nhất có
thể vào đời sống chung của xã hội và chỉ trích các quan chức chính phủ hay các
chính sách bất hợp lý và mang tính áp bức. Công dân và các đại diện của họ công
nhận rằng nền dân chủ phụ thuộc vào sự tiếp cận một cách rộng rãi nhất có thể
đối với các ý tưởng, dữ liệu và quan điểm không bị kiểm duyệt. Để người dân tự
do quản lý bản thân, họ phải được tự do bày tỏ chính kiến một cách cởi mở, công
khai và liên tục – cả nói lẫn viết.
Bảo vệ quyền tự do ngôn luận là cái được gọi là
“quyền phủ định”, theo đó chính phủ không được hạn chế quyền tự do ngôn luận.
Giới chức ở một nền dân chủ không can thiệp vào nội dung phát biểu dù nói hay
viết.
Sự phản kháng là thước đo đối với mỗi nền dân chủ.
Do vậy quyền hội họp hòa bình là thiết yếu và là một phần thống nhất trong việc
thúc đẩy tự do ngôn luận. Xã hội dân sự cho phép những người bất đồng về các
vấn đề được tranh luận sôi nổi. Ở nước Mỹ hiện đại, ngay cả những vấn đề cơ bản
như an ninh quốc gia, chiến tranh và hòa bình đều được thảo luận tự do trên báo
chí và trên các phương tiện phát thanh truyền hình. Qua đó, người những người
phản đối chính sách đối ngoại của chính quyền dễ dàng công khai quan điểm của
mình.
Tự do ngôn luận là một quyền cơ bản, nhưng không
phải là tuyệt đối và không thể viện dẫn để kích động bạo lực. Tội vu khống và
phỉ báng nếu được chứng minh sẽ do tòa án xử lý. Ở các nền dân chủ, nếu muốn
cấm phát ngôn hay các buổi tụ họp được cho là có thể kích động bạo lực, làm tổn
hại danh tiếng người khác hoặc nhằm lật đổ một chính phủ hợp hiến, thì phải
chứng minh được mức độ đe dọa lớn của những hành động đó.
Nhiều nền dân chủ cấm phát ngôn gây phân biệt chủng
tộc hoặc hiềm thù sắc tộc. Tuy nhiên, thách thức với tất cả các nền dân chủ là
làm sao để cân bằng giữa việc bảo vệ tự do ngôn luận và hội họp, đồng thời phải
xử lý những phát biểu thực sự kích động bạo lực, đe dọa, hoặc lật đổ các thể
chế dân chủ. Người dân có thể phản ứng trước hành vi của một quan chức một cách
công khai và mạnh mẽ; nhưng việc kêu gọi ám sát quan chức đó lại là phạm tội.
Tự do tôn giáo và khoan dung
Mọi công dân phải được tự do tín ngưỡng. Tự do tôn
giáo bao gồm quyền hành đạo một mình hoặc với những người khác, ở nơi công cộng
hoặc riêng tư, hoặc cả quyền không theo tôn giáo nào cả và tham gia vào các
buổi lễ tôn giáo, hành đạo và giảng dạy tôn giáo mà không sợ bị chính phủ hoặc
các nhóm khác trong xã hội ngược đãi. Mọi người đều có quyền hành đạo hoặc hội
họp với một tôn giáo hoặc tín ngưỡng, có quyền xây dựng và duy trì các địa điểm
dành riêng cho những hoạt động này.
Giống với các quyền con người cơ bản khác, tự do
tôn giáo không phải do nhà nước tạo ra hay ban cho, nhưng nhà nước dân chủ nào
cũng phải bảo vệ quyền tự do đó. Mặc dù nhiều nền dân chủ công nhận có sự tách
biệt chính thức giữa nhà thờ và nhà nước, nhưng những giá trị của chính phủ và
tôn giáo không vì thế mà xung đột căn bản. Chính phủ nào bảo vệ quyền tự do tôn
giáo cho mọi công dân thì chắc chắn bảo vệ được các quyền khác cần thiết để có
tự do tôn giáo, chẳng hạn như quyền tự do ngôn luận và tự do hội họp. Các thuộc
địa Mỹ và hầu hết các nhà nước chính trị thần quyền thế kỷ XVII và XVIII, đã
phát triển các thuyết về khoan dung tôn giáo và thuyết dân chủ thế tục. Ngược
lại, một số chế độ độc tài thế kỷ XX lại nỗ lực xóa bỏ tôn giáo, coi đó là hình
thức tự biểu hiện tín ngưỡng của cá nhân, giống với ngôn luận chính trị. Các
nền dân chủ thực sự nhận thức rằng những khác biệt về tôn giáo của mỗi cá nhân
phải được tôn trọng và vai trò chủ chốt của chính phủ là bảo vệ lựa chọn tôn
giáo, ngay cả trong những trường hợp nhà nước cấm một tín ngưỡng tôn giáo cụ
thể. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bản thân tôn giáo có thể là cái cớ
để biện minh cho bạo lực chống lại các tôn giáo khác hoặc chống lại cả xã hội.
Tôn giáo được thực thi trong bối cảnh một xã hội dân chủ nhưng không thể vượt
lên trên xã hội.
Trách nhiệm của công dân
Tư cách công dân trong một nền dân chủ đòi hỏi sự
tham gia, phép lịch sự và sự kiên nhẫn, tức là đòi hỏi cả quyền lẫn trách
nhiệm. Nhà khoa học chính trị Benjamin Barber đã khẳng định: “Dân chủ thường
được hiểu là nguyên tắc đa số và các quyền ngày càng được hiểu là sự sở hữu tư
nhân của mỗi cá nhân… Nhưng như thế là đã hiểu sai về cả các quyền và về dân
chủ”. Để một nền dân chủ thành công, công dân phải chủ động, chứ không bị động,
bởi vì họ biết rằng sự thành công hay thất bại của chính phủ là trách nhiệm của
họ chứ không phải của ai khác.
Tất nhiên là cá nhân thực hiện các quyền cơ bản như tự do ngôn luận, hội
họp và tự do tôn giáo. Nhưng mặt khác, các quyền – cũng giống như các cá nhân –
không tự hoạt động một cách biệt lập. Các quyền được thực hiện trong khuôn khổ
xã hội, chính vì vậy mà quyền và nghĩa vụ luôn đi liền với nhau.
Chính phủ dân chủ – do dân bầu ra và có trách nhiệm
trước nhân dân – bảo vệ các quyền cá nhân, từ đó công dân trong một nền dân chủ
có thể thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của mình, góp phần củng cố xã
hội.
Ít nhất thì công dân cũng phải tự nhận thức về
những vấn đề quan trọng mà xã hội đang phải đối mặt. Chỉ có vậy họ mới có thể
biểu quyết một cách sáng suốt. Một số nghĩa vụ như tham gia vào bồi thẩm đoàn
tại các tòa án dân sự, hình sự hoặc tòa án quân đội, có thể do luật pháp quy
định, nhưng cũng có thể là tự nguyện.
Bản chất của hành động dân chủ là sự tham gia của
công dân vào đời sống chính trị của cộng đồng và đất nước họ một cách tự do,
chủ động và hòa bình. Theo học giả Diane Ravitch, “Dân chủ là một tiến trình,
là cách sống và làm việc. Dân chủ tiến hóa, chứ không phải bất biến. Dân chủ
đòi hỏi công dân phải hợp tác, thỏa hiệp và khoan dung. Làm sao để dân chủ vận
hành là công việc không hề dễ dàng. Tự do có nghĩa là trách nhiệm, không phải
không có trách nhiệm”. Thực thi trách nhiệm này nghĩa là can dự tích cực vào
các tổ chức hoặc theo đuổi những mục tiêu cụ thể của cộng đồng.
Trên tất cả, thực thi trách nhiệm trong một nền dân
chủ liên quan đến một quan điểm nhất định, tức là sẵn sàng tin rằng những người
khác cũng có quyền giống như bạn.
BẦU CỬ DÂN CHỦ
Các cuộc bầu cử tự do và công bằng là yếu tố cơ bản
đảm bảo sự đồng thuận của nhân dân, là trụ cột của nền chính trị dân chủ. Các
cuộc bầu cử là cơ chế chủ yếu để chuyển hóa sự đồng thuận đó thành quyền lực
của chính phủ.
Những thành tố của bầu cử dân chủ
Jeane Kirkpatrick từng là học giả và cựu đại sứ Mỹ
tại Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa như sau: “Bầu cử dân chủ không chỉ đơn
thuần là hình thức… Chúng là những cuộc bầu cử cạnh tranh, theo định kỳ, với
thành phần tham gia mở và mang tính quyết định, qua đó các nhà hoạch định chính
sách của một chính phủ được nhân dân bầu lên. Nhân dân có quyền tự do chỉ trích
chính phủ, công khai phê phán và đề xuất các chính sách thay thế.
Bầu cử dân chủ mang tính cạnh tranh. Các đảng phái
chính trị và các ứng cử viên đối lập phải có quyền tự do ngôn luận, tự do hội
họp và đi lại để công khai chỉ trích chính phủ và đưa ra trước cử tri các chính
sách và các ứng cử viên thay thế. Nếu chỉ cho phép phe đối lập tiếp cận lá
phiếu thì chưa đủ. Đảng cầm quyền có thể có lợi thế vì đang nắm quyền, nhưng
các nguyên tắc và thủ tục tranh cử phải công bằng. Mặt khác, quyền tự do hội
họp dành cho các đảng đối lập không ám chỉ tình trạng lộn xộn hay bạo lực. Đó
là tranh luận.
Các cuộc bầu cử dân chủ diễn ra định kỳ. Các nền
dân chủ không bầu lên các nhà độc tài hay các tổng thống suốt đời. Các quan
chức được bầu lên phải có trách nhiệm trước nhân dân. Nếu muốn tiếp tục được ủy
nhiệm nắm quyền, họ phải quay trở lại với cử tri tại các cuộc bầu cử giữa kỳ và
phải đối diện với khả năng không được bầu.
Các cuộc bầu cử dân chủ có tính mở. Khái niệm tư
cách công dân và cử tri phải đủ rộng để bao gồm tất cả dân chúng trưởng thành.
Một chính phủ được bầu lên bởi một nhóm nhỏ, không nhiều thành phần tham gia,
thì không phải là một nền dân chủ – dù công việc trong nước vận hành dân chủ
đến mức nào đi nữa. Một trong những đặc điểm quan trọng của dân chủ trong lịch
sử là cuộc đấu tranh của các nhóm bị đẩy ra ngoài lề – các nhóm sắc tộc, chủng
tộc hoặc các nhóm tôn giáo thiểu số, phụ nữ – nhằm giành quyền công dân đầy đủ
và cùng với đó là quyền được bầu cử, nắm giữ các chức vụ và tham gia đầy đủ vào
đời sống xã hội.
Các cuộc bầu cử có tính quyết định. Chúng quyết
định giới lãnh đạo của chính phủ trong một thời gian nhất định. Những quan chức
được bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu nắm giữ quyền lực, chứ không đơn thuần
chỉ là các nhà lãnh đạo bù nhìn.
Các nền dân chủ, phát triển dựa trên sự cởi mở và
tính trách nhiệm, với một ngoại lệ quan trọng nhất: bản than việc bầu cử. Để
hạn chế tối đa khả năng bị trả thù, các cử tri ở một nền dân chủ phải được bỏ
phiếu kín. Đồng thời, việc bảo vệ thùng phiếu và kiểm phiếu phải được tiến hành
công khai nhất có thể, để công dân tin tưởng rằng kết quả là chính xác và chính
phủ thực sự đã dựa vào “sự đồng thuận” của họ.
Tôn trọng đối thủ
Một trong những khái niệm khó chấp nhận nhất đối
với một số người, đặc biệt là ở những quốc gia mà việc chuyển giao quyền lực
thường diễn ra bằng bạo lực, đó là “chấp nhận đối thủ”. Tuy nhiên, đây là một ý
tưởng quan trọng. Nó có nghĩa là về cơ bản tất cả các bên trong một nền dân chủ
đều có chung cam kết đối với những giá trị cơ bản. Các đối thủ chính trị không
nhất thiết phải thích người khác, nhưng họ phải có thái độ khoan dung với họ và
thừa nhận rằng mỗi người đều có một vai trò quan trọng và hợp pháp. Hơn thế
nữa, các nguyên tắc cơ bản của xã hội phải khuyến khích sự khoan dung và phép
lịch sự trong các cuộc tranh luận công khai.
Khi các cuộc bầu cử đã xong, người thua phải chấp
nhận quyết định của cử tri. Nếu đảng cầm quyền thất bại, đảng đó phải chuyển
giao quyền lực hòa bình. Bất chấp người thắng là ai, cả hai bên phải nhất trí
hợp tác trong việc giải quyết những vấn đề chung của xã hội. Phe đối lập tiếp
tục tham gia vào đời sống chung với sự thừa nhận rằng họ đóng vai trò quan
trọng ở bất cứ nền dân chủ nào. Phe đối lập không phải trung thành với những
chính sách cụ thể của chính phủ mà là trung thành với tính hợp pháp cơ bản của
nhà nước và tiến trình dân chủ. Rốt cuộc thì các cuộc bầu cử dân chủ không phải
là một cuộc đấu tranh sinh tồn mà là một cuộc cạnh tranh để phục vụ.
Quản lý bầu cử
Ở mỗi nền dân chủ, cách thức các quan chức được bầu
lên rất khác nhau. Ví dụ, ở cấp độ quốc gia, các nghị sĩ có thể do các các khu
vực bầu cử bầu ra – trong đó mỗi khu vực bầu một đại diện. Quy định này được
gọi là hệ thống bầu cử “người thắng được tất”. Một cách khác, theo hệ thống tỷ
lệ đại diện, số đại diện của mỗi đảng ở cơ quan lập pháp tính theo tổng phiếu
bầu trên toàn quốc. Các cuộc bầu cử cấp tỉnh và địa phương có thể theo mô hình
ở cấp quốc gia này.
Dù theo hệ thống nào đi nữa, các tiến trình bầu cử
phải được đánh giá là công bằng và cởi mở để kết quả bầu cử được công nhận là
hợp pháp. Các quan chức phải đảm bảo quyền tự do rộng mở cho người tham gia
đăng ký cử tri hoặc chạy đua vào một chức vụ; điều hành hệ thống công bằng nhằm
đảm bảo việc bỏ phiếu kín nhưng kiểm phiếu mở, công khai; ngăn chặn gian lận
phiếu bầu và nếu cần thiết kiểm lại phiếu và giải quyết tranh chấp bầu cử.
PHÁP QUYỀN
Trong phần lớn lịch sử nhân loại, luật pháp đơn
giản là ý chí của tầng lớp cai trị. Ngược lại, các nền dân chủ đã định ra
nguyên tắc pháp trị đối với cả kẻ cai trị lẫn người bị trị.
Bình đẳng trước pháp luật
Pháp quyền bảo vệ các quyền kinh tế, chính trị và
xã hội cơ bản, đồng thời bảo vệ nhân dân trước mối đe dọa của chế độ chuyên chế
và tình trạng không luật pháp. Pháp quyền có nghĩa là không một cá nhân nào, cả
tổng thống lẫn người dân, được đứng trên luật pháp. Các chính phủ dân chủ sử
dụng quyền lực theo pháp quyền và bản thân họ chịu những giới hạn mà luật pháp
quy định.
Công dân sống ở các nền dân chủ sẵn sàng tuân theo
luật pháp của xã hội bởi vì họ đang tuân thủ chính những nguyên tắc và quy định
của bản thân.
Công lý được thực hiện tốt nhất khi luật pháp được
người dân xây dựng nên và chính họ phải tuân theo luật pháp đó. Dù giàu hay
nghèo, dù là người thuộc phe đa số hay phe thiểu số, dù là đồng minh chính trị
của nhà nước hay là những người đối lập hòa bình, tất cả đều phải tuân thủ luật
pháp.
Công dân của một nền dân chủ tuân thủ luật pháp bởi
vì họ nhận thức rằng, mặc dù gián tiếp, nhưng họ đang tuân theo chính họ với tư
cách là những người làm luật. Khi luật pháp do nhân dân xây dựng nên và sau đó
bản thân họ phải tuân theo luật pháp đó, thì cả luật lẫn nền dân chủ đều được
phục vụ.
Tiến trình xét xử đúng luật
Ở mọi xã hội trong lịch sử, những người điều hành
hệ thống tư pháp nắm giữ quyền lực có khả năng lạm dụng quyền lực và trở nên
chuyên quyền. Dưới danh nghĩa nhà nước, các cá nhân bị bỏ tù, bị tịch thu tài
sản, bị tra tấn, trục xuất và hành quyết nhưng không được chứng minh là có tội
và thường không bị buộc tội danh chính thức nào cả. Không một xã hội dân chủ
nào cho phép xảy ra tình trạng lạm dụng như vậy.
Các nhà nước phải có quyền lực để duy trì trật tự
và trừng phạt những hành vi phạm tội, nhưng thủ tục tố tục theo đó nhà nước
thực thi luật phải công khai và rõ rang – không được xử kín, tùy tiện hoặc bị
chính trị hóa – và phải được áp dụng như nhau đối với tất cả mọi người. Đó chính
là quy trình xét xử đúng luật. Để thực hiện tiến trình xét xử đúng luật, dưới
đây là các nguyên tắc đã phát triển ở các nền dân chủ theo hợp hiến • Cảnh sát
không được vào nhà dân lục soát nếu không có lệnh của tòa án cho thấy có lý do
chính đáng để tiến hành lục soát. Ở một nền dân chủ không có việc cảnh sát mật
được gõ cửa các gia đình vào lúc nửa đêm.
·
• Không ai bị giam giữ nếu không có những cáo buộc rõ ràng, bằng văn bản
nêu rõ vi phạm. Hơn thế nữa, theo quy định về lệnh đình quyền giam giữ, tất cả
những ai bị bắt đều có quyền được đưa ra tòa xử và phải được thả nếu tòa thấy
việc bắt giữ là không có cơ sở.
·
• Trước khi xét xử, không được giam giữ những người bị cáo buộc tội lâu
trong tù. Họ có quyền được xét xử công khai, nhanh chóng và đối chất với nguyên
đơn.
·
• Các nhà chức trách phải cho bảo lãnh hoặc thả có điều kiện bị cáo đang
chờ xét xử nếu thấy nghi phạm khó có thể trốn chạy hoặc vi phạm các tội khác.
·
• Người dân không bị ép buộc làm chứng chống lại bản thân. Quy định nhằm
ngăn chặn tình trạng tự phân biệt đối xử miễn cưỡng này phải là quy định
dứt khoát. Do vậy, trong bất cứ hoàn cảnh nào cảnh sát cũng không được tra tấn
hoặc xâm phạm về thể chất lẫn tâm lý đối với nghi phạm.
·
• Người dân không bị kết án hai lần, có nghĩa là không thể bị cáo buộc hai
lần cùng một tội danh nếu họ đã thụ án tại một tòa án.
·
• Do có khả năng bị các nhà chức trách lạm dụng nên cái gọi là luật hồi tố
cũng được xây dựng. Đây là những điều luật đưa ra sau khi xảy ra sự việc, tức
là một người vẫn có thể bị cáo buộc tội danh ngay cả khi hành vi của anh ta ở
thời điểm xảy ra chưa được quy định là phạm tội.
·
• Cấm các hình thức trừng phạt dã man hoặc bất bình thường. Không quy định
nào trong số những quy định này có nghĩa là nhà nước thiếu quyền lực cần thiết
để thực thi luật và trừng phạt người vi phạm. Trái lại, hệ thống tư pháp ở một
nền dân chủ sẽ hiệu quả nếu việc điều hành hệ thống đó được nhân dân đánh giá
là công bằng và bảo vệ được an toàn cá nhân, cũng như phục vụ lợi ích công
cộng.
CHỦ NGHĨA HỢP HIẾN
Hiến pháp – văn kiện khẳng định những nghĩa vụ cơ
bản của chính phủ và những hạn chế đối với quyền lực của nhà nước – là một
thiết chế quan trọng đối với bất cứ nền dân chủ nào.
Các hiến pháp: Siêu luật
Hiến pháp quy định những mục đích và khát vọng cơ
bản của một xã hội vì lợi ích chung của người dân. Mọi công dân, kể cả các lãnh
đạo nhà nước, phải tuân thủ hiến pháp quốc gia. Hiến pháp là bộ luật cao nhất
của quốc gia.
Hiến pháp – thường được pháp điển hóa thành một văn
kiện riêng biệt – quy định quyền lực của chính phủ quốc gia, quy định bảo vệ
các quyền con người cơ bản và quy định trình tự hoạt động cơ bản của chính phủ.
Các hiến pháp thường được dựa trên những thực tiễn và tiền lệ chưa được pháp
điển hóa trước đó nhưng đã được chấp nhận rộng rãi. Ví dụ, Hiến pháp Mỹ được
dựa trên những khái niệm xuất phát từ thông luật của Anh, cũng như nỗ lực của
các triết gia thế kỷ XVIII nhằm định nghĩa các quyền con người.
Chủ nghĩa hợp hiến công nhận rằng chính phủ dân chủ
và có trách nhiệm phải chịu những giới hạn rõ ràng. Bởi vậy, mọi bộ luật phải
được soạn thảo phù hợp với hiến pháp. Ở một nền dân chủ, cơ quan tư pháp độc
lập về chính trị cho phép công dân có quyền đòi thay đổi những bộ luật mà họ
cho là không hợp hiến và yêu cầu tòa án ra phán quyết đối với những hành vi bất
hợp pháp của chính phủ hoặc của các quan chức chính phủ.
Dù bản chất hiến pháp là lâu dài và có ý nghĩa rất
lớn, nhưng vẫn phải có khả năng thay đổi và thích nghi nếu chúng không muốn trở
thành thứ đồ cổ chỉ để ngắm mà thôi. Hiến pháp lâu đời nhất trên thế giới –
Hiến pháp Mỹ – bao gồm 7 điều khoản ngắn gọn và 27 điều sửa đổi bổ sung. 10
điều sửa đổi bổ sung đầu tiên của Hiến pháp Mỹ được gọi là Tuyên ngôn Nhân
quyền. Tuy nhiên, văn kiện này cũng là nền tảng của cấu trúc mang tính “hiến
pháp” rộng lớn gồm các quyết định pháp lý, bộ luật, hành động của tổng thống và
những thông lệ đã được phát triển trong 200 năm qua, góp phần giữ cho Hiến pháp
Mỹ phù hợp đến hôm nay.
Nhìn chung, có hai trường phái liên quan đến tiến
trình sửa đổi, hoặc thay đổi hiến pháp của một quốc gia. Một trường phái cho
rằng tốt nhất là đưa ra một quy trình khó khăn, yêu cầu phải qua nhiều bước và
phải có sự chấp thuận của đa số lớn nếu muốn sửa đổi. Như vậy, hiến pháp sẽ
thay đổi không thường xuyên và chỉ khi nào có những lý do thật bức xúc thì việc
thay đổi hiến pháp mới nhận được sự ủng hộ lớn của dân chúng. Đó là trường phái
Mỹ.
Phương pháp thay đổi hiến pháp đơn giản hơn, mà
nhiều nước sử dụng là quy định rằng bất cứ điều sửa đổi nào đều có thể đưa ra
để quốc hội chấp thuận và sau đó cử tri thông qua tại cuộc bầu cử tiếp theo.
Những hiến pháp được sửa đổi theo kiểu này có thể sẽ rất dài.
Chủ nghĩa liên bang: Phân tán
quyền lực
Khi người dân tự do chọn sống theo một khuôn khổ
hiến pháp được nhất trí, khuôn khổ đó có thể được thực hiện theo nhiều cách
khác nhau. Một số nền dân chủ có các cơ quan quản lý đơn nhất. Những nền dân
chủ khác 0theo hệ thống chính phủ liên bang – tức là quyền lực được chia sẻ ở
cấp độ địa phương, khu vực và quốc gia.
Ví dụ, Mỹ là một nền cộng hòa liên bang trong đó
các bang có vị trí pháp lý của riêng họ và quyền lực độc lập với chính phủ liên
bang. Không giống với sự phân chia chính trị ở các quốc gia như Anh và Pháp –
những nước có cấu trúc chính trị đơn nhất – ở Mỹ chính quyền liên bang không có
quyền xóa bỏ hay thay đổi các bang. Ở Mỹ, mặc dù quyền lực ở cấp liên bang ngày
càng gia tăng đáng kể, nhưng các bang vẫn có những trách nhiệm quan trọng trong
những lĩnh vực như giáo dục, y tế, giao thông và thực thi luật. Đổi lại, các
bang ngày càng đi theo mô hình liên bang khi trao bớt chức năng cho cộng đồng
địa phương, chẳng hạn như quản lý các trường học và cảnh sát.
Sự phân chia quyền lực trong hệ thống liên bang
không bao giờ là rõ ràng. Các cơ quan liên bang, bang và địa phương, tất cả đều
có các chương trình nghị sự chồng chéo nhau và thậm chí là xung đột trong những
lĩnh vực như giáo dục và luật hình sự. Tuy nhiên, hình thức liên bang có thể
tối đa hóa cơ hội tham gia của người dân – nhân tố vô cùng quan trọng đối với
sự vận hành của xã hội dân chủ. Người Mỹ cho rằng cấu trúc liên bang của họ bảo
vệ được quyền tự trị của cá nhân.
BA TRỤ CỘT CỦA CHÍNH PHỦ
Như đã trình bày, thông qua các cuộc bầu cử tự do,
công dân của một nền dân chủ chuyển giao quyền lực cho các nhà lãnh đạo của họ
theo quy định của luật pháp. Trong một nền dân chủ hợp hiến, quyền lực của
chính phủ được phân chia để nhánh lập pháp ban hành luật, nhánh hành pháp thi
hành luật và nhánh tư pháp hoạt động độc lập ngang với hai nhánh trên. Những
quy định này đôi khi được gọi là “chia sẻ quyền lực”. Tuy nhiên trên thực tế,
sự phân chia đó hiếm khi rõ ràng và ở hầu hết các nhà nước dân chủ hiện đại,
những quyền này vẫn bị chồng chéo và được chia sẻ như chúng đã được tách ra.
Các cơ quan lập pháp có thể muốn quản lý các chương trình bằng những quy định
chi tiết; các cơ quan hành pháp thường xuyên tham gia vào hoạt động làm luật
chi tiết; cả các nghị sĩ lẫn các quan chức chính phủ đều tiến hành điều trần
theo kiểu tư pháp về hàng loạt vấn đề.
Hành pháp
Ở các nền dân chủ hợp hiến, quyền hành pháp nhìn
chung bị giới hạn ở ba phương diện:
(i) Sự phân chia quyền lực giữa ngành hành pháp,
lập pháp và tư pháp như đã trình bày ở trên trong đó ngành lập pháp và tư pháp
có thể kiểm soát quyền lực của ngành hành pháp;
(ii) Các quy định của hiến pháp về việc bảo vệ các
quyền cơ bản và
(iii) Các cuộc bầu cử theo định kỳ.
Những người chuyên quyền và những người chỉ trích
khác đều hiểu sai khi cho rằng các nền dân chủ thiếu quyền lực để trấn áp, đồng
thời cũng thiếu quyền lực để cai trị. Quan điểm này hoàn toàn sai lạc: Các nền
dân chủ đòi phải giới hạn quyền lực của chính phủ, chứ không phải họ yếu kém.
Quyền hành pháp ở các nền dân chủ hiện đại nhìn chung được tổ chức theo một
trong hai cách sau: hệ thống nghị viện hoặc tổng thống.
Trong hệ thống nghị viện, đảng đa số (hoặc liên
minh các đảng sẵn sàng cùng nhau nắm quyền) trong cơ quan lập pháp sẽ thành lập
chính phủ, đứng đầu là một thủ tướng. Ngành lập pháp và hành pháp không hoàn
toàn khác biệt với nhau trong hệ thống nghị viện, do thủ tướng và các thành
viên nội các đều là người của quốc hội; dù vậy nhưng thủ tướng là nguyên thủ
quốc gia.
Ngược lại, trong hệ thống tổng thống, tổng thống
thường được bầu lên riêng rẽ từ các thành viên của cơ quan lập pháp. Cả tổng
thống lẫn cơ quan lập pháp đều có cơ sở quyền lực và các khu vực cử tri riêng,
chúng kiểm soát và cân bằng lẫn nhau.
Mỗi hệ thống đều có những điểm mạnh, điểm yếu về
thể chế. Đặc trưng cơ bản của hệ thống nghị viện mà cho đến nay tạo nên đa số
các nền dân chủ chính là khả năng ứng phó và linh hoạt của chúng. Các chính phủ
trong hệ thống nghị viện, đặc biệt là nếu được bầu lên thông qua tỉ lệ đại
diện, có xu hướng hình thành các hệ thống đa đảng, trong đó ngay cả những đảng
nhỏ cũng có đại diện tại cơ quan lập pháp. Do vậy, các nhóm thiểu số vẫn có thể
tham gia vào tiến trình chính trị ở cấp cao nhất của chính phủ. Nếu như liên
minh cầm quyền sụp đổ hoặc đảng mạnh nhất thất bại, thủ tướng từ chức và một
chính phủ mới sẽ được hình thành hoặc các cuộc bầu cử mới sẽ diễn ra – tất cả
điều diễn ra trong khoảng thời gian ngắn.
Điểm yếu cơ bản đối với hệ thống nghị viện chính là
mặt trái của sự linh hoạt và chia sẻ quyền lực, đó là tính bất ổn định. Các
liên minh đa đảng có thể lỏng lẻo và sụp đổ ngay khi nổ ra khủng hoảng chính
trị, khiến cho các chính phủ cầm quyền chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và
không có khả năng giải quyết các vấn đề chính trị khó khăn. Nói cách khác, các
hệ thống nghị viện khác sẽ ổn định nhờ có các đảng chiếm đa số mạnh.
Đối với hệ thống tổng thống, điểm mạnh chủ yếu là
trách nhiệm trực tiếp, tính liên tục và sức mạnh. Các tổng thống – được dân bầu
lên trong một nhiệm kỳ cố định – có thể khẳng định quyền lực từ các cuộc bầu cử
trực tiếp, bất chấp vị thế của đảng họ tại quốc hội. Bằng việc xây dựng các
nhánh chính quyền riêng rẽ và bình đẳng về mặt lý thuyết, hệ thống tổng thống
muốn xây dựng các thể chế hành pháp và lập pháp mạnh, mỗi thể chế đều được nhân
dân uỷ quyền và có khả năng kiểm soát và cân bằng lẫn nhau.
Điểm yếu của các tổng thống và cơ quan lập pháp
được bầu lên riêng rẽ là khả năng dẫn đến bế tắc. Các tổng thống có thể không
lôi kéo đủ đồng minh chính trị trong cơ quan lập pháp để bỏ phiếu thông qua các
chính sách mà họ muốn. Tuy nhiên, với việc sử dụng quyền phủ quyết (trong các
trường hợp nhất định đây là quyền được bác bỏ các luật do quốc hội thông qua),
tổng thống có thể ngăn không cho cơ quan lập pháp ban hành các chương trình làm
luật riêng của họ. Nhà khoa học chính trị Richard Neustadt
đã mô tả quyền lực của tổng thống Mỹ là “không phải
quyền ra lệnh, mà là quyền thuyết phục”. Neustadt muốn nói rằng tổng thống Mỹ
nào muốn Quốc hội ban hành chương trình nghị sự pháp luật mà được tổng thống ưa
thích – hoặc ít nhất là tránh ban hành những luật mà tổng thống không nhất trí
vì được các đối thủ chính trị thông qua – đều phải có được sự ủng hộ chính trị
của dân chúng và có khả năng lôi kéo liên minh hiệu quả tại Quốc hội.
Lập pháp
Các cơ quan lập pháp được bầu lên – dù là theo hệ
thống nghị viện hay tổng thống – đều là diễn đàn chủ yếu để soạn thảo, tranh
luận và thông qua luật trong một nền dân chủ đại diện. Những cơ quan này không
phải là cái gọi là những quốc hội bù nhìn, chỉ có việc thông qua những quyết
định của một lãnh đạo chuyên quyền.
Các nghị sĩ có thể chất vấn các quan chức chính phủ
về những hành động và quyết định của họ, phê chuẩn ngân sách quốc gia và thông
qua thành viên chính phủ bổ nhiệm vào tòa án và các bộ. Ở một số nền dân chủ,
các ủy ban lập pháp là diễn đàn cho các nhà làm luật công khai xem xét các vấn
đề quốc gia. Các nghị sĩ có thể ủng hộ chính phủ đang nắm quyền hoặc họ có thể
là lực lượng chính trị đối lập đề xuất những chính sách hoặc các chương trình
thay thế.
Các nghị sĩ có trách nhiệm giải thích quan điểm của
họ một cách hiệu quả nhất có thể. Tuy nhiên, họ phải làm việc trong khuôn khổ
đạo đức dân chủ với sự khoan dung, tôn trọng và thỏa hiệp để có được sự nhất
trí có lợi vì lợi ích chung của người dân, chứ không chỉ vì những người ủng hộ
họ về mặt chính trị. Mỗi nghị sĩ phải tự mình quyết định cách cân bằng giữa lợi
ích chung và nhu cầu của bộ phận cử tri địa phương.
Do thiếu đặc điểm phân chia quyền lực của hệ thống
tổng thống, nên hệ thống nghị viện phải dựa nhiều hơn vào động lực chính trị
bên trong của hệ thống này để kiểm soát và cân bằng quyền lực của chính phủ.
Những động lực này thường là phe đối lập được tổ chức riêng rẽ “bao vây” chính
phủ hoặc cạnh tranh giữa các đảng đối lập.
Ngành tư pháp độc lập
Các thẩm phán có chuyên môn và độc lập là nền tảng
của một hệ thống tòa án công bằng, vô tư và được hiến pháp bảo vệ. Sự độc lập
này không có nghĩa là các thẩm phán có thể đưa ra những quyết định dựa trên ý
muốn cá nhân họ. Họ phải được tự do đưa ra các quyết định pháp lý – ngay cả khi
những quyết định đó mâu thuẫn với chính phủ hoặc các đảng có quyền lực khác có
liên quan tới vụ việc.
Ở các nền dân chủ, cấu trúc hiến pháp mang tính bảo
vệ và uy tín của ngành tư pháp bảo đảm sự độc lập trước áp lực chính trị. Do
vậy, các phán quyết của ngành tư pháp mới vô tư, dựa trên thực tiễn vụ việc,
các lập luận pháp lý và các luật liên quan, không bị chính phủ hoặc cơ quan lập
pháp áp đặt hạn chế hoặc gây áp lực. Những nguyên tắc này đảm bảo mọi người đều
được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
Quyền của các thẩm phán được xem xét lại các bộ
luật và tuyên bố các luật đó vi phạm hiến pháp là hình thức kiểm soát cơ bản
khả năng chính phủ lạm dụng quyền lực – ngay cả khi chính phủ đó được bầu lên
bằng đa số. Tuy nhiên, quyền này đòi hỏi các tòa án phải được nhìn nhận là độc
lập và phi đảng phái và có khả năng đưa ra quyết định dựa trên luật pháp chứ
không phải các tính toán chính trị.
Dù được bầu lên hay được chỉ định, các thẩm phán
đều phải được an toàn trong nghề nghiệp hoặc nhiệm kỳ theo quy định của luật
pháp, để họ có thể đưa ra những quyết định mà không phải lo ngại những người có
quyền lực gây áp lực hoặc tấn công. Để đảm bảo sự vô tư, không thiên vị của họ,
đạo đức tư pháp đòi hỏi các thẩm phán phải đứng bên ngoài (hoặc náu mình) không
được ra quyết định trong các vụ việc mà họ có xung đột lợi ích cá nhân. Tin
tưởng vào sự vô tư, không thiên vị của hệ thống tòa án – tin tưởng vào việc nó
được đánh giá là một nhánh chính quyền “phi chính trị” – là nhân tố cơ bản
quyết định sức mạnh và tính hợp pháp của ngành tư pháp.
Thẩm phán ở một nền dân chủ không thể bị bãi nhiệm
vì những khiếu nại nhỏ nhặt, hoặc chỉ là đáp ứng sự chỉ trích chính trị. Thay
vào đó, họ chỉ có thể bị bãi nhiệm nếu vi phạm những tội ác nghiêm trọng hoặc
vi phạm luật thông qua thủ tục luận tội và xét xử kéo dài và nhiều bước (để đưa
ra các cáo buộc) tại cơ quan lập pháp hoặc trước một hội đồng tòa án riêng rẽ.
GIỚI TRUYỀN THÔNG ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO
Khi các xã hội hiện đại phát triển cả về quy mô lẫn
tính phức tạp, lĩnh vực thông tin, liên lạc và tranh luận công khai ngày càng
bị các phương tiện truyền thông đã chi phối, trong đó có phát thanh, truyền
hình, báo, tạp chí, đặc biệt là những phương tiện truyền thông mới như Internet
và truyền hình vệ tinh.
Dù là nhật ký điện tử hay sách in thì trong xã hội
dân chủ chức năng của truyền thông vẫn có sự chồng chéo, nhưng những chức năng
riêng vốn có của nó về cơ bản vẫn giữ nguyên, đó là tính thông tin và tính giáo
dục. Để đưa ra những quyết sách đúng đắn về chính sách công, người ta cần thông
tin chính xác, kịp thời và công bằng. Tuy nhiên, một chức năng khác nữa của
truyền thông là cổ xúy, ngay cả khi tỏ ra thiếu khách quan. Khán giả của các
phương tiện truyền thông có thể tiếp cận những ý kiến khác nhau, thậm chí xung
đột nhau, từ đó nắm bắt nhiều loại quan điểm khác nhau. Vai trò này của truyền
thông đặc biệt quan trọng trong các chiến dịch vận động tranh cử, vì rất ít cử
tri chỉ có cơ hội nhìn thấy các ứng cử viên, nói gì đến việc trò chuyện với họ.
Chức năng thứ hai của truyền thông là giám sát hoạt
động của Chính phủ và các thể chế quyền lực trong xã hội. Nhờ có sự khách quan
và độc lập – mặc dù chưa hoàn hảo – truyền thông đã giúp phơi bày sự thật đằng
sau những tuyên bố của chính phủ và buộc các quan chức chính phủ phải có trách
nhiệm về những hành động của họ.
Truyền thông cũng có thể đóng một vai trò tích cực
hơn trong cuộc tranh luận công khai thông qua các bài xã luận hoặc báo cáo điều
tra. Đồng thời, nó là một diễn đàn để các cá nhân và các nhóm bày tỏ quan điểm
qua thư và bài viết và những thông tin đưa lên mạng, với rất nhiều quan điểm
khác nhau.
Các nhà bình luận còn chỉ ra một vai trò ngày càng
quan trọng nữa của truyền thông là “xây dựng chương trình nghị sự”. Do không
thể thông tin về tất cả, nên các phương tiện truyền thông phải chọn vấn đề nào
cần nhấn mạnh và vấn đề nào nên bỏ qua. Tóm lại, họ có xu hướng phải quyết định
cái gì là tin tức và cái gì không. Đổi lại, những quyết định này sẽ ảnh hưởng
đến nhận thức của công chúng về vấn đề quan trọng nhất. Tuy nhiên, không giống
với các nước mà ở đó truyền thông bị chính phủ quản lý, truyền thông ở một nền
dân chủ không thể đơn giản cứ theo ý muốn mà xuyên tạc hay làm ngơ trước các
vấn đề. Vì rút cục thì các đối thủ cạnh tranh được tự do kêu gọi sự quan tâm,
chú ý đối với danh sách những vấn đề quan trọng của họ.
Công dân ở một nền dân chủ tin tưởng rằng với sự
trao đổi cởi mở các ý tưởng và quan điểm, cuối
cùng sự thật sẽ chiến thắng, giá trị của những
người khác sẽ được hiểu rõ hơn, những lĩnh vực thỏa hiệp sẽ được xác định rõ
hơn và con đường tiến bộ sẽ mở ra. Mức độ trao đổi càng lớn càng tốt.
Nhà văn E.B. White nhận xét: “Giới báo chí ở đất
nước tự do của chúng ta là đáng tin cậy và hữu ích không phải bởi đặc điểm tốt
của nó mà bởi chính tính đa dạng của nó. Chừng nào còn nhiều người sở hữu các
phương tiện truyền thông, mà mỗi người đều theo đuổi lĩnh vực tìm kiếm sự thật
riêng của mình, khi đó chúng ta còn cơ hội đến với sự thật và sống trong sự
thật… đông người thì không sợ gì cả”.
CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ, NHÓM
LỢI ÍCH, TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
Không thể yêu cầu công dân tham gia vào tiến trình
chính trị, nhưng nếu không có hành động của công dân, nền dân chủ sẽ bị suy
yếu. Công dân có quyền tự do hội họp và thành lập những tổ chức của riêng mình
nếu thấy phù hợp. Đó là nhân tố cơ bản của dân chủ.
Các đảng phái chính trị
Các đảng phái chính trị thu nạp, chỉ định và vận
động tranh cử để bầu lên các quan chức; xây dựng các đường lối chính sách cho
chính phủ nếu họ là đảng nắm đa số; chỉ trích hoặc đề xuất các chính sách thay
thế nếu họ là đảng đối lập; huy động các nhóm lợi ích ủng hộ các chính sách
chung; giải thích cho công chúng về những vấn đề công; xây dựng cơ cấu và
nguyên tắc tiến hành tranh luận chính trị trong xã hội. Trong một số hệ thống
chính trị, ý thức hệ có thể là một nhân tố quan trọng trong việc thu nạp và
khuyến khích các thành viên trong đảng. Ở các hệ thống chính trị khác, lợi ích
kinh tế hoặc tình hình xã hội có thể quan trọng hơn cam kết về ý thức hệ.
Các tổ chức đảng và những thủ tục hoạt động trong các đảng phái rất khác
nhau. Ở một góc độ, hệ thống nghị viện đa đảng là tổ chức được quy định
chặt chẽ nhất, hoàn toàn do các nhà chuyên môn điều hành. Ở góc độ khác là nước
Mỹ nơi có Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa là những tổ chức phi tập trung hóa hoạt
động phần lớn tại Quốc hội và cấp bang. Rồi cứ bốn năm một lần các tổ chức này
lại tập hợp lại ở cấp quốc gia để khởi động chiến dịch tranh cử tổng thống. Các
chiến dịch bầu cử ở một nền dân chủ thường phức tạp, tốn nhiều thời gian và đôi
khi rất ngớ ngẩn, nhưng vai trò của chúng rất quan trọng. Bầu cử là phương pháp
hòa bình và công bằng, theo đó người dân có thể lựa chọn các nhà lãnh đạo và
quyết định chính sách công.
Các nhóm lợi ích và tổ chức phi
chính phủ
Công dân ở một nền dân chủ có thể tham gia các tổ
chức cá nhân hoặc tình nguyện, trong đó có các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích
cố gắng bằng cách nào đó gây ảnh hưởng đối với chính sách công và thuyết phục
các quan chức ủng hộ những quan điểm của họ. Chỉ trích có thể làm giảm ảnh
hưởng của những “lợi ích đặc biệt” nhưng nó giúp người dân nhận ra rằng nền dân
chủ bảo vệ quyền của những nhóm lợi ích như vậy để tổ chức và đấu tranh cho
những quyền lợi của họ.
Nhiều nhóm lợi ích truyền thống đã được tổ chức
xuất phát từ các vần đề kinh tế; các nhóm kinh doanh và nông nghiệp; các liên
đoàn lao động tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong hầu hết các hệ thống dân chủ. Tuy
nhiên, trong vài thập kỷ gần đây, các nhóm lợi ích đã lớn mạnh cả chất lượng
lẫn số lượng, bao quát hầu hết các lĩnh vực như xã hội, văn hóa, chính trị và
thậm chí cả các hoạt động tôn giáo. Các tổ chức chuyên môn cũng lớn mạnh cùng
các nhóm lợi ích công ủng hộ sự nghiệp của họ từ cải thiện việc chăm sóc sức
khoẻ cho người nghèo đến bảo vệ môi trường – những vấn đề có thể không trực
tiếp đem lại lợi ích cho thành viên các nhóm. Bản thân các chính phủ có thể
cũng hoạt động giống các nhóm lợi ích. Ở Mỹ, các hiệp hội thống đốc bang, thị
trưởng những thành phố lớn và các cơ quan lập pháp bang thường xuyên vận động
quốc hội Mỹ thông qua những vấn đề mà họ quan tâm. Động lực của nền chính trị
nhóm lợi ích khá phức tạp. Quy mô của các nhóm có vai trò quan trọng, các nhóm
với số lượng lớn thành viên trên cả nước sẽ tự động lôi kéo được sự quan tâm
chú ý của các quan chức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, những nhóm có quy
mô nhỏ, được tổ chức chặt chẽ và cam kết mạnh mẽ đối với những vấn đề của họ
cũng có thể gây ảnh hưởng lớn so với số lượng thành viên của họ. Một
trong những phát triển đáng kinh ngạc nhất trong
vài thập kỷ gần đây là sự xuất hiện các tổ chức phi chính phủ trên quy mô toàn
cầu. Với nỗ lực phục vụ nhu cầu của cộng đồng, quốc gia hay vì một sự nghiệp
được xác định là những vấn đề toàn cầu, các tổ chức phi chính phủ này cố gắng
hỗ trợ, thậm chí thách thức sự điều hành của chính phủ bằng cách ủng hộ, tuyên
truyền và thu hút sự chú ý đối với những vấn đề chủ yếu và giám sát hoạt động
của chính phủ và khu vực tư nhân. Các chính phủ và tổ chức phi chính phủ luôn
là đối tác của nhau. Các tổ chức phi chính phủ cung cấp chuyên gia và hướng dẫn
chuyên môn nhằm thực hiện những dự án do chính phủ tài trợ. Các tổ chức phi
chính phủ có thể không có liên kết về chính trị hoặc có thể hoạt động trên lý
tưởng đảng phái và tìm cách thúc đẩy một sự nghiệp cụ thể hoặc một loạt sự
nghiệp nào đó vì lợi ích của nhân dân. Dù hoạt động theo hướng nào thì vấn đề
mấu chốt là ở chỗ nhà nước kiểm soát hoạt động của các tổ chức phi chính phủ ở
mức thấp nhất.
QUAN HỆ QUÂN SỰ VÀ DÂN SỰ
Vấn đề chiến tranh và hòa bình là vấn đề trọng yếu
nhất mà bất cứ quốc gia nào cũng có thể phải đối mặt, đặc biệt ở những thời
điểm khủng hoảng. Nhiều quốc gia phải đưa quân đội lên nắm quyền lãnh đạo. Điều
đó không xảy ra ở các nền dân chủ.
Ở các nền dân chủ, vấn đề quốc phòng và mối đe dọa
đối với an ninh quốc gia phải do nhân dân quyết định thông qua các đại diện mà
họ bầu lên. Quân đội ở một nền dân chủ phải phục vụ đất nước chứ không lãnh đạo
đất nước. Các lãnh đạo quân đội cố vấn cho các nhà lãnh đạo được bầu lên và
thực hiện những quyết định của họ. Chỉ có những người được dân bầu lên mới có
trách nhiệm và quyền lực tối cao trong việc quyết định vận mệnh của dân tộc. Nguyên
tắc kiểm soát dân sự đối với quân đội là nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ.
Các lãnh đạo dân sự cần lãnh đạo quân đội quốc gia
và quyết định những vấn đề quốc phòng không phải bởi vì họ giỏi hơn các chuyên
gia quân sự mà bởi vì họ là đại diện của nhân dân và do vậy họ có trách nhiệm
đưa ra những quyết sách và chịu trách nhiệm về những quyết định đó.
Ở một nền dân chủ, quân đội tồn tại để bảo vệ đất
nước và các quyền tự do của nhân dân. Quân đội không được đại diện hay ủng hộ
bất cứ quan điểm chính trị nào, không được ủng hộ các nhóm sắc tộc hoặc nhóm xã
hội nào. Quân đội phải trung thành với những lý tưởng lớn hơn của dân tộc,
trung thành với pháp quyền và nguyên tắc dân chủ. Mục tiêu của quân đội là bảo
vệ xã hội chứ không phải định hình xã hội.
Bất cứ một chính phủ dân chủ nào cũng coi trọng
chuyên môn và tư vấn của các chuyên gia quân sự trong việc thực hiện các quyết
sách về quốc phòng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có lãnh đạo dân sự được
bầu ra mới có quyền đưa ra những quyết sách cuối cùng về phòng thủ quốc gia và
quân đội sau đó sẽ thực hiện những quyết định đó.
Tất nhiên các tướng lĩnh quân đội cũng tham gia vào
đời sống chính trị với tư cách cá nhân như các công dân khác. Nhân viên quân sự
có thể tham gia bỏ phiếu bầu cử. Tuy nhiên, tất cả nhân viên quân sự phải ra
khỏi ngành hoặc nghỉ hưu mới có thể tham gia chính trị. Nghĩa vụ quân sự phải
tách biệt với chính trị. Quân đội là đầy tớ trung lập của nhà nước và là người
bảo vệ xã hội.
NỀN VĂN HÓA DÂN CHỦ
Đôi khi con người có những mong muốn mâu thuẫn
nhau. Họ muốn an toàn nhưng lại thích thú mạo hiểm; họ muốn có tự do cá nhân,
nhưng cũng đòi bình đẳng xã hội. Nền dân chủ cũng vậy. Nhưng điều quan trọng là
phải nhận thức được rằng nhiều mâu thuẫn này, thậm chí cả nghịch lý, đều hiển
hiện ở mọi xã hội dân chủ.
Xung đột và đồng thuận
Theo Larry Diamond – học giả đồng thời là nhà văn –
giữa xung đột và đồng thuận tồn tại một nghịch lý cơ bản. Ở nhiều phương diện,
dân chủ chỉ là một tập hợp những quy định quản lý xung đột. Đồng thời, mâu
thuẫn này phải được quản lý trong những giới hạn nhất định và dẫn đến sự thỏa
hiệp, đồng thuận hay những hình thức nhất trí khác được tất cả các bên chấp
nhận là hợp pháp. Bất cứ sự thiên vị nào đều có thể đe dọa sự cân bằng. Nếu như
các nhóm coi dân chủ chỉ là một diễn đàn để họ bày tỏ nhu cầu thì xã hội có thể
đổ vỡ từ bên trong. Nếu chính phủ gây sức ép lớn nhằm đạt được sự đồng thuận,
bất chấp ý kiến của nhân dân thì xã hội có thể bị đổ vỡ từ bên trên.
Không có giải pháp đơn giản nào để cân bằng xung
đột và đồng thuận. Dân chủ không phải là một cỗ máy có thể tự vận hành được khi
những các nguyên tắc hợp lý được đưa vào. Một xã hội dân chủ cần phải có sự cam
kết của người dân, theo đó chấp nhận xung đột chính trị và tri thức là điều tất
yếu và điều cần thiết là phải có sự khoan dung. Từ góc độ này, chúng ta phải
nhận thức được rằng nhiều xung đột trong xã hội dân chủ không phải là sự xung
đột giữa “đúng” hay “sai”, mà là xung đột về cách diễn giải thế nào là quyền
dân chủ và ưu tiên xã hội.
Giáo dục và dân chủ
Giáo dục là một phần thiết yếu của bất cứ xã hội
nào, đặc biệt quan trọng đối với một nền dân chủ. Thomas Jeferson viết: “Nếu
một quốc gia muốn được ngu dốt và tự do trong một nền văn minh hóa có nghĩa là
họ mong muốn những gì chưa bao giờ xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra”.
Có sự gắn kết trực tiếp giữa giáo dục và các giá
trị dân chủ. Trong các xã hội dân chủ, nội dung và thực tiễn giáo dục hỗ trợ
cho những thực tiễn trong quản lý dân chủ. Quá trình truyền bá giáo dục này cực
kỳ quan trọng ở một nền dân chủ bởi vì các nền dân chủ hiệu quả đều năng động,
xây dựng những mô hình quản lý yêu cầu người dân phải tư duy một cách độc lập.
Cơ hội tạo ra những thay đổi tích cực về chính trị – xã hội nằm trong tay của
người dân. Chính phủ không được
coi hệ thống giáo dục là phương tiện truyền bá cho
học sinh mà cần dành nguồn lực cho giáo dục giống như nỗ lực đảm bảo những nhu
cầu cơ bản khác của người dân. Đối lập với các xã hội chuyên chế tìm cách áp
đặt thái độ tiếp thu bị động, mục tiêu của nền giáo dục dân chủ là đào tạo ra
những công dân độc lập, biết đặt vấn đề và thực sự quen với những quan niệm và
thực tiễn dân chủ. Chester.E. Finn Jr., nghiên cứu viên cao cấp của Viện Chính
sách Giáo dục Hoover nói: “mọi người sinh ra vốn đã có ham muốn tự do cá nhân,
nhưng lại không biết về những dàn xếp chính trị và xã hội giúp mang lại tự do
lâu dài cho bản thân và con cái họ…Cần phải có những dàn xếp đó. Họ cần phải
biết về chúng”. Tìm hiểu về dân chủ bắt đầu từ trường học và tiếp tục khi chúng
ta tham gia vào đời sống công dân, đồng thời xuất phát từ sự tò mò muốn biết
những loại thông tin có thể tiếp cận được trong một xã hội tự do.
Xã hội và dân chủ
Chủ nghĩa hợp hiến dân chủ về cơ bản là nền tảng
theo đó các xã hội đạt đến sự thật – dù không hoàn thiện – thông qua xung đột
và thỏa hiệp các ý tưởng, các thể chế và cá nhân. Dân chủ là thực dụng. Ý tưởng
và giải pháp cho các vấn đề không được kiểm nghiệm trên nền tảng một hệ tư
tưởng cứng nhắc mà được kiểm nghiệm trong một thế giới thực, ở đó người ta
tranh luận, trao đổi, chấp nhận hay loại bỏ chúng. Như học giả Diane Ravitch
nhận xét: “xây dựng liên minh là bản chất của hành động dân chủ. Xây dựng liên
minh là chỉ cách cho các nhóm lợi ích thương lượng với nhau, thỏa hiệp và vận
hành trong hệ thống hiến pháp. Bằng việc thiết lập liên minh, các nhóm có quan
điểm khác nhau tìm hiểu cách tranh luận một cách hòa bình, theo đuổi mục tiêu
của họ một cách dân chủ và cuối cùng để tồn tại trong một thế giới đa dạng”.
Chính phủ tự quản không phải lúc nào cũng tránh
được sai lầm, chấm dứt được xung đột dân tộc, đảm bảo phát triển kinh tế hoặc
giữ vững hạnh phúc. Tuy nhiên, nó cho phép tranh luận công khai để xác định và
sửa chữa những sai lầm; cho phép các nhóm gặp gỡ và giải quyết những khác biệt;
mang đến cơ hội phát triển kinh tế và giúp nâng cao tiến bộ xã hội và sự bày tỏ
của cá nhân.
Josef Brodsky, cố thi sĩ người Nga và là người đoạt
giải Nobel viết: “Một người tự do khi thất bại anh ta sẽ không đổ lỗi cho ai”.
Điều này hoàn toàn đúng đối với công dân ở các nền dân chủ. Họ phải chịu trách
nhiệm về vận mệnh của xã hội nơi họ sinh sống. Bản thân dân chủ không đảm bảo
điều gì. Thay vào đó, nó đưa đến những cơ hội thành công và cả nguy cơ thất
bại. Trong lời khẳng định mang tính cảnh báo nhưng đầy triết lý của Thomas
Jeferson, dân chủ hứa hẹn “cuộc sống, sự tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
Dân chủ khi đó vừa là sự hứa hẹn và là một thách
thức. Dân chủ hứa hẹn loài người tự do, hợp tác với nhau, tự quản lý theo cách
hướng tới thực hiện những khát vọng về tự do cá nhân, cơ hội kinh tế và công
bằng xã hội. Dân chủ là thách thức bởi vì sự thành công của nền dân chủ phụ
thuộc vào chính các công dân chứ không phải ai khác.
Trung tâm Hoa Kỳ
Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ
quán Hoa Kỳ
Tầng 1, Rose Garden
Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà
Nội
Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04)
3850-5048; Email: HanoiAC@state.gov__
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét